Tăng cường công tác quản lý và bảo vệ vốn rừng hiện có; đánh giá lại thực trạng về nguồn tài nguyên rừng để có giải pháp ứng phó phù hợp bởi thực tế những khu rừng nhìn bên ngoài có vẻ như là rừng nguyên sinh, còn nguyên vẹn, nhưng bên trong đã bị khai thác cạn kiệt; một số đã chuyển sang trồng trọt và mua bán sang nhượng trái phép.
Cần ưu tiên đẩy mạnh đầu tư kinh phí trồng rừng đầu nguồn; trồng rừng mới, trồng lại rừng sau khai thác; tái sinh phục hồi rừng tự nhiên, bổ sung diện tích rừng, nâng cao giá trị đa dạng sinh học, khả năng cung cấp lâm sản và lâm sản ngoài gỗ, khả năng phòng hộ và các giá trị khác của rừng. Thực hiện tốt công tác quản lý quy hoạch rừng; không chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ diện tích rừng sang diện tích nông nghiệp dưới bất cứ hình thức nào; hạn chế chuyển phát triển thủy điện bậc thang.
Mỗi khi diện tích rừng thực sự phục hồi, đảm bảo tỷ lệ tương đối giữa đất rừng và đất nông nghiệp thì vai trò của rừng sẽ được phát huy, hạn chế dòng chảy bề mặt đất từ đó giảm thiểu nguy cơ và tốc độ xói mòn, rửa trôi đất do hạn chế được lũ lụt, xói lở đất, từ đó tạo điều kiện cho việc tái tạo lại độ phì nhiêu của đất diễn ra thuận lợi.
Rừng có vai trò trong việc điều hòa khí hậu, giúp giảm bớt sự gia tăng nhiệt độ không khí, từ đó giúp giảm thiểu quá trình đốt cháy hữu cơ của đất, tạo điều kiện cho việc phục hồi độ phì nhiêu của đất nhanh hơn.
Hệ rễ của cây rừng giúp hấp thu nước, giữ nước và tạo nguồn sinh thủy, từ đó giảm thiểu nguy cơ thiếu hụt nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và tạo điều kiện cho việc tưới tiêu thuận lợi cũng góp phần cải tạo độ phì nhiêu của đất.
TS Trương Hồng, nguyên Viện trưởng Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên.
Đa dạng sinh học trong canh tác cây công nghiệp dài ngày
Các mô hình đa dạng hóa sinh học đã góp phần tăng thêm thu nhập cho nông dân từ 30 – 80%; do vậy đã hạn chế được rủi ro do canh tác độc canh.
Các nghiên cứu về biến đổi độ phì nhiêu của đất của các vườn cà phê trồng độc canh không có cây che bóng và vườn cà phê có trồng cây che bóng là các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như sầu riêng, bơ đã cho thấy độ phì đất như hàm lượng hữu cơ, lân dễ tiêu, kali dễ tiêu; can xi, magiê trao đổi, CEC sau 10 năm canh tác ở vườn đa dạng sinh học có chiều hướng tăng so với khi bắt đầu trồng mới;
Trong khi đó vườn cà phê trồng độc canh, không có cây che bóng thì hàm lượng hữu cơ, đạm tổng số, lân dễ tiêu, kali dễ tiêu, đặc biệt là hàm lượng cation kiềm, kiềm thổ bị suy giảm nhanh, là dấu hiệu của đất bị suy thoái. Giai đoạn kiến thiết cơ bản của vườn cà phê, hồ tiêu cần trồng xen các loại cây đậu đỗ.
Trên đất dốc trồng sắn và các loại cây lương thực khác cần thiết kế trồng theo đường đồng mức, thiết kế băng chống xói mòn trên đất dốc; đồng thời kết hợp với trồng các loại cây phủ đất họ đậu.
Các nghiên cứu cho thấy rằng đối với vườn cà phê kiến thiết cơ bản, đất trồng sắn, ngô nếu thiết kế các băng chống xói mòn, trồng cây che phủ đất thì lượng đất mất hàng năm giảm từ 50 – 70% so với đối chứng.
Sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hợp lý
Thay đổi tập quán canh tác nông nghiệp từ thâm canh sử dụng hóa chất nông nghiệp cao sang canh tác bền vững.
Theo đó, ưu tiên sử dụng các loại phân bón hữu cơ, hữu cơ sinh học, hữu cơ vi sinh kết hợp với sử dụng phân bón vô cơ cân đối, hợp lý.
Việc bón phân hữu cơ hàng năm cho cây trồng giúp cải thiện độ tơi xốp, tính thấm và giữ nước, giữ dinh dưỡng và tái lập mối cân bằng hệ vi sinh vật trong đất. Bón phân hữu cơ cho cây trồng thường xuyên đã làm tăng hiệu quả sử dụng phân hóa học từ 15 – 25%; giúp tiết kiệm chi phí phân vô cơ.
Các nghiên cứu cho thấy rằng đối với vườn cà phê, hồ tiêu bón phân cân đối, hợp lý đã làm tăng năng suất từ 5 – 15% so với vườn đối chứng của nông dân; lượng phân bón giảm 5 – 10%; các hàm lượng dinh dưỡng như hữu cơ, đạm tổng số, lân, kali dễ tiêu, CEC ở vườn cà phê bón phân cân đối cao hơn rõ so với vườn đối chứng.
Chuyển dần từ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hóa học sang sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật sinh học là nền tảng cho việc phục hồi hệ cân bằng sinh thái trong tự nhiên; đặc biệt là cải thiện môi trường sinh học trong đất, vi sinh vật có lợi phát triển (nấm, vi khuẩn… có ích), từ đó giúp kiểm soát tốt các loại sâu bệnh hại từ đất; các loại côn trùng có ích cũng phát triển như các loại bọ rùa là thiên địch tấn công các loại rệp; các loại nấm ký sinh tấn công côn trùng và nấm gây hại.
Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học sẽ đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho nông sản, đây là tiêu chí vô cùng quan trọng đối với các nước nhập khẩu từ Châu Âu, Nhật, Mỹ, Hàn Quốc…
Quản lý nguồn nước, tưới nước hợp lý, khoa học
Thiết lập hệ thống hạ tầng thủy lợi phù hợp với quy hoạch vùng nông nghiệp trên cơ sở vừa bảo vệ nguồn nước và điều tiết nguồn nước tập trung một cách hiệu quả trong mùa mưa lũ nhằm hạn chế tác hại của lũ lụt gây xói mòn, rửa trôi đất; đồng thời dự trữ nước cho mùa khô hạn phục vụ nhu cầu tưới nước cho các loại cây trồng chủ lực có giá trị kinh tế cao.
Đây là biện pháp rất quan trọng trong việc phục hồi khả năng sản xuất và tăng độ phì nhiêu của đất đã bị thoái hóa.
Kỹ thuật tưới tiêu nước cũng rất quan trọng góp phần đáng kể trong việc duy trị và cải tạo độ phì nhiêu của đất nông nghiệp.
Cần áp dụng các kỹ thuật tưới phù hợp đảm bảo đủ lượng nước cho nhu cầu của cây và cho đất giúp cho các quá trình sinh hóa xảy ra trong đất thuận lợi là cơ sở cho việc duy trì và cải thiện độ phí nhiêu; ưu tiên áp dụng công nghệ tưới nước tiết kiệm.
Việc tưới nước với lượng quá cao sẽ làm tăng chi phí sản xuất đồng thời sẽ làm cho quá trình rửa trôi, tích tụ sét và các cation kiềm, kiềm thổ theo chiều sâu, dẫn đến tầng canh tác của đất bị chua hóa; tưới lượng nước cao đến mức tạo dòng chảy trên mặt hoặc tưới tràn sẽ làm tăng nguy cơ xói mòn đất và mất dinh dưỡng, dẫn đến đất đai bị bạc màu, suy thoái.
Luân canh các cây trồng
Luân canh các loại cây trồng khác nhau trên một diện tích đất trồng nhằm hạn chế việc cạn kiệt nguồn dinh dưỡng trong đất.
Đối với các loại cây công nghiệp dài ngày khi kết thúc chu kỳ khai thác nên luân canh với các loại cây phân xanh họ đậu; các loại cây lấy hạt họ đậu… Các loại cây lương thực ngắn ngày như ngô, lúa cạn, sắn… sau 4 - 5 vụ trồng trọt cũng cần luân canh nhằm cải tạo, cải thiện độ phì và tái tạo lại sức sản xuất của đất.
Tóm lại, để phục hồi đất thoái hóa trước khi quá muộn cần thiết phải cho một chương trình truyền thông với slogan “Hãy bảo vệ sức khỏe của đất” hay “Đất khỏe, cây khỏe, người khỏe” để nông dân thay đổi tập quán canh tác theo hướng bền vững bên cạnh việc tập huấn, đào tạo kỹ năng về sản xuất nông nghiệp.
Để duy trì, bảo vệ và từng bước cải thiện, nâng cao sức sản xuất của đất (hoặc độ phì nhiêu của đất) thì cần thực hiện một hệ thống giải pháp kinh tế, kỹ thuật và quản lý như đã đề cập ở trên với sự phối hợp nhịp nhàng và quyết tâm của cơ quan quản lý nhà nước, người nông dân và nhà khoa học.
Theo TS Trương Hồng
Nguồn Nongnghiep.vn
Giải pháp phục hồi đất thoái hóa ở Tây Nguyên
Phục hồi đất thoái hóa đòi hỏi một chiến lược dài hơi về thời gian cùng với một hệ thống...
Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh phát triển "thuận thiên" tại Đồng bằng sông Cửu Long không có nghĩa là phải là cam chịu, chấp nhận số phận hay sự sắp đặt của tạo hóa...
Phê duyệt kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025
-
Ngày 25/02/2021, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 255/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021–2025.
Triển khai Kết luận số 54-KL/TW ngày 07/08/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2020 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021–2025.
Mục tiêu chung của kế hoạch là tiếp tục thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh nông sản; bảo vệ môi trường, sinh thái; nâng cao thu nhập cho người dân ở khu vực nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực và an ninh quốc phòng. Đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, gắn với phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thích ứng với biến đổi khí hậu và kết nối bền vững với chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2025, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng ngành nông nghiệp đạt bình quân từ 2,5 đến 3,0%/năm. Tốc độ tăng năng suất lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản (sau đây gọi là nông nghiệp) đạt bình quân từ 7,0 đến 8,0%/năm.
Thạc sỹ Nguyễn Văn Chương được tôn vinh là “Nhà khoa học của Nhà nông” năm 2020
-
Chương trình Tôn vinh “Nhà Khoa học của Nhà nông” lần thứ Ba, năm 2020 đã được khai mạc vào lúc 20g00, ngày 29/12/2020, tại Nhà hát Quân đội (Hà Nội). Đây là lần thứ Ba, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (NDVN) chủ trì và phối hợp với Bộ NN&PTNT, Bộ Khoa học và Công nghệ, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức.
Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ chính trị và ông Thào Xuân Sùng, Chủ tịch BCH TW Hội Nông dân Việt Nam rao Giấy chứng nhận và Kỷ niệm chương cho Thạc sỹ Nguyễn Văn Chương.
Tối 29/12, tại Hà Nội, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức Lễ tôn vinh "Nhà Khoa học của nhà nông" lần thứ 3, năm2020.
Trưởng Ban Dân vận Trung ương Trương Thị Mai và Chủ tịch Ban chấp hành trung ương Hội Nông dân Việt Nam Thào Xuân Sùng trao Giấy chứng nhận và Kỷ niệm chương cho các nhà khoa học. Ảnh: TTXVN
MÔ HÌNH TRỒNG GIỐNG SẮN KM 140 SẠCH BỆNH - GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SẮN BỀN VỮNG TẠI TÂY NINH
-
Năm 2020, Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc phối hợp với Trung tâm khuyến nông tỉnh Tây Ninh triển khai Dự án khuyến nông ”Xây dựng mô hình sản xuất giống sạch bệnh, thâm canh, quản lý tổng hợp phòng trừ bệnh khảm lá sắn do virus gây hại tại vùng trồng sắn trọng điểm” với diện tích 30ha trên địa bàn xã Tân Đông huyện Tân Châu tỉnh Tây Ninh.
Nghiên cứu ứng dụng chỉ thị phân tử trong chọn tạo giống đậu tương kháng bệnh rỉ sắt
-
Ở Việt Nam, cây đậu tương (Glycine max L.) chiếm một vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp và nền kinh tế quốc dân. Tuy vậy, diện tích trồng cũng như sản lượng đậu tương ở Việt Nam vẫn còn rất thấp so với các nước trên thế giới và có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Một trong những nguyên nhân chính đẫn đến diện tích đậu tương bị thu hẹp là hiệu quả sản xuất thấp bởi giống có năng suất thấp, rủi ro lớn do sâu bệnh hại. Công tác chọn tạo giống đậu tương của ta hiện vẫn chủ yếu là phương pháp lai tạo truyền thống, khó tạo được giống mang nhiều tính trạng mong muốn, đặc biệt là năng suất cao và kháng sâu bệnh. Chính vì vậy cần phải có phương pháp mới hỗ trợ có hiệu quả trong chọn tạo để tạo được giống đậu tương mới mang được nhiều đặc điểm mong muốn, đặc biệt là năng suất cao, khả năng chống chịu sâu bệnh cho sản xuất.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh đánh giá cao mô hình trồng ngô sinh khối ở Vĩnh Phúc, khi nông dân chia sẻ có thu nhập ổn định, đạt khoảng 5 triệu đồng/tháng.
Ngày 2/11, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh tới thăm mô hình trồng ngô sinh khối làm nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi tại xã Liên Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Tại buổi gặp, ông vui mừng khi nghe bà con nông dân nói thu nhập tại cơ sở ổn định, đạt khoảng 5 triệu đồng/tháng.
Đồng Tháp: Xây dựng chuỗi giá trị ngành hàng khoai hướng đến sự phát triển bền vững
-
Thời gian qua, sản phẩm khoai lang, khoai môn mang lại thu nhập ổn định cho nông dân tỉnh Đồng Tháp. Tuy nhiên, những năm gần đây, khi diện tích khoai tăng mạnh, người dân lại đối diện với thực trạng “được mùa mất giá”. Để giải quyết bài toán này, việc xây dựng và phát triển chuỗi giá trị ngành hàng khoai, xây dựng các mô hình sản xuất thông minh, an toàn, áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất để nâng cao hơn giá trị cho ngành hàng tiềm năng này là điều cần thiết...
Ngày đăng: 30/07/2020 Số lượt xem: 183 Người đăng: luungocminh
Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, chuẩn hóa quy trình canh tác, liên kết sản xuất hồ tiêu theo hướng nông nghiệp sạch là hướng đi tất yếu để phát triển cây tiêu bền vững ở Việt Nam.
Trong 2 tháng trở lại đây, giá hồ tiêu trong nước liên tục tăng, báo hiệu sự khởi sắc. Đây là tín hiệu đáng mừng cho ngành hồ tiêu nói chung và nông dân sản xuất hồ tiêu nói riêng. Tuy nhiên, các chuyên gia ngành hồ tiêu cho rằng, để giữ được giá hồ tiêu ổn định, tránh cung vượt cầu, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu hồ tiêu phải đa dạng sản phẩm tiêu chế biến.
Khởi sắc từ đơn hàng cũ và lễ hội
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sản lượng hồ tiêu của Việt Nam chiếm khoảng một nửa sản lượng hồ tiêu của toàn cầu.
Tính đến cuối tháng 4, vụ thu hoạch hạt tiêu năm 2020 của Việt Nam đã đạt trên 50% với sản lượng ước đạt 250.000 tấn, tồn kho năm 2019 chuyển sang khoảng 90.000 tấn. Do đó, nguồn cung năm 2020 ước đạt khoảng 350.000 tấn.